Tụng kinh cho người mới mất siêu thoát khỏi vòng luân hồi

Cầu siêu là hành động của người sống mong cho linh hồn người đã qua đời được siêu thoát, sớm nhập cửa Phật. Đây là nghi thức tâm linh quan trọng trong văn hóa Việt Nam. Dưới đây Tang lễ 24h sẽ hướng dẫn tụng kinh cầu siêu cho người đã mất tại nhà, mà các Phật tử có thể tham khảo.

Vì sao cần tụng kinh cho người mới mất?

Trong văn hóa tâm linh dân gian, việc tụng kinh cho người mới mất không chỉ là một nghi thức truyền thống mà còn là biểu hiện sâu sắc của lòng tri ân và nhớ đến ông bà, cha mẹ đã dành tâm huyết để sinh thành và nuôi dưỡng chúng ta. Thực hiện tụng kinh trong 49 ngày đầu sau khi người thân ra đi mang ý nghĩa quan trọng.

Hành động này không chỉ giúp linh hồn người mất chuyển kiếp một cách thuận lợi mà còn giúp giải thoát nghiệp chướng, hướng dẫn vong linh đến cõi an lành. Bằng cách thường xuyên tụng niệm kinh, chúng ta mong muốn hỗ trợ vong linh hiểu và chấp nhận nghiệp quả của mình, từ đó tạo điều kiện cho sự hòa nhập và giải thoát khỏi khổ đau còn tồn tại. Điều này đồng nghĩa với việc giúp linh hồn người mới mất sớm tìm kiếm bình an và tránh xa khỏi nơi địa ngục u tối. Trong văn hóa tâm linh dân gian, tụng kinh cho người mới mất không chỉ là truyền thống mà còn là cầu nguyện mang ý nghĩa sâu sắc, tạo điều kiện cho họ tiếp tục hành trình sau cõi đời này.

Xem thêm: Tại sao phải che bàn thờ khi có người mất? Giải đáp bí ẩn

Tại sao cần phải tụng kinh cho người mới mất?
Tại sao cần phải tụng kinh cho người mới mất?

Nghi thức tụng kinh cho người mới mất

Nghi thức tụng kinh cho người mới mất bao gồm 3 bài kinh, và để thực hiện một cách chỉn chu nhất, bạn nên tuân thủ theo trình tự sau:

  • Cúng Hương: Thắp 3 nén nhang, quỳ thẳng lưng, giơ nhang cao ngang trán và tụng bài cúng hương. Sau đó, làm lễ xá 3 cái rồi cắm hương vào bát.
  • Tán Phật, Quán Tưởng: Sau khi cắm hương, quay lại chỗ quỳ thẳng và đọc bài tán Phật, quán tưởng. Lưu ý sau mỗi lần đọc phải xá lại 1 cái.
  • Đảnh lễ: Đọc bài đảnh trễ trì tụng, sau đó đọc bài Tán Lư Hương 3 lần.
  • Tụng Niệm Chú Đại Bi và Phát Nguyện Trì Kinh: Bắt đầu đọc kinh cầu siêu từ khai kinh đến Phật nói kinh A Di Đà. Niệm kinh Maha Bát Nhã Ba-la Mật Đa Tâm, kinh rồi đến vãng sanh chơn ngôn và tán Phật.
  • Thần Chú Thất Phật Diệt Tội, Phục Nguyên và Hồi Hướng: Đọc thần chú Thất Phật diệt tội, phục nguyên và hồi hướng.
  • Tự Quy và Đảnh Lễ Cúi Lạy Tam Bảo Thường Trụ Mười Phương: Kết thúc là tự quy và đảnh lễ cúi lạy Tam Bảo thường trụ mười phương. Bước này đánh dấu kết thúc nghi lễ cầu siêu.
  • Nghi lễ đọc kinh cho người mới mất là một truyền thống lâu dài của người Việt, yêu cầu sự đầy đủ và chân thành. Để hiểu rõ hơn, bạn nên tìm kiếm sự hướng dẫn của những sư thầy có kinh nghiệm trong việc cúng kiến và đọc kinh cầu siêu cho người đã mất.
  • Nên lưu ý rằng nghi lễ đọc kinh cho người mới mất thường diễn ra trong suốt 49 ngày đầu. Đây là thời kỳ quan trọng, giúp linh hồn thấu hiểu, cảm nhận và nhìn nhận lỗi lầm. Sau 49 ngày, bạn vẫn có thể tiếp tục cầu siêu để tích lũy công đức cho con cháu và người thân, giữ cho họ luôn bình an và hạnh phúc.
  • Một số bài kinh phổ biến có thể tụng niệm cho người mới mất bao gồm Kinh Vu Lan, Kinh A Di Đà, Kinh Cầu Siêu, và Chú Đại Bi.

Xem thêm: Hướng dẫn Cách Cúng 100 ngày cho người mất đầy đủ chi tiết nhất

Nghi thức tụng kinh cho người mới mất
Nghi thức tụng kinh cho người mới mất

Trọn bộ bài kinh tụng cho người mới mất sớm siêu thoát

Niệm hương, lễ bái

(Sau khi thắp đèn và đốt hương trầm, đứng ngay, chắp tay đặt ngang ngực để mật niệm)

Tịnh pháp giới chân ngôn

Án lam xóa ha. (3 lần)

Tịnh tam – nghiệp chân ngôn

Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)

Cúng hương

(Thắp ba cây hương, quỳ ngay thẳng, cầm hương ngang trán niệm lớn bài cúng hương)

Nguyện thử diệu hương vân,

Biến mãn thập phương giới,

Cúng dường nhất thiết Phật,

Tôn pháp chư Bồ tát,

Vô biên Thanh văn chúng,

Cập nhất thiết Thánh-Hiền,

Duyên khởi quang minh đài,

Xứng tính tác Phật-sự,

Phổ huân chư chúng-sinh,

Giai phát Bồ-Ðề tâm,

Viễn-ly chư vọng-nghiệp,

Viên-thành vô-thượng đạo.

(Xá 3 xá rồi đọc bài kỳ nguyện)

Kỳ nguyện

Tư thời đệ-tử chúng đẳng phúng tụng kinh chú, xưng tán hồng-danh, tập thử công-đức, nguyện thập-phương thường-trú Tam-bảo, Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, tiếp dẫn đạo-sư A-Di-Ðà Phật, từ-bi tiếp độ hương linh….. (pháp-danh)….. phiền-não đoạn-diệt, nghiệp-chướng tiêu trừ, tốc xả mê đồ, siêu sinh Tịnh-độ, ngưỡng kỳ chư Phật từ-bi phóng quang tiếp độ hương-linh vãng sinh Cực-lạc quốc.

Tán Phật

Pháp vương vô-thượng tôn

Tam-giới vô luân thất

Thiên nhân chi Ðạo-sư

Tứ-sinh chi từ-phụ

Ư nhất niệm quy-y

Năng diệt tam-kỳ nghiệp

Xưng dương nhược tán-thán

Ức kiếp mạc năng tận.

(Ðứng dậy cầm hướng lên lư rồi chắp tay đứng thẳng và niệm lớn):

Quán tưởng

Năng lễ, sở lễ tính không tịch,

Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,

Ngã thử đạo tràng như Ðế-châu,

Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,

Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,

Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.

  • Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trú Tam-Bảo. (1 lạy)
  • Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sinh Di-Lặc Tôn Phật, Ðại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-Pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)
  • Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Ðại-từ Ðại-bi A-Di-Ðà Phật, Ðại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-tát, Ðại-nguyện Ðịa-Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát. (1 lạy)

(Ðứng ngay, vô chuông mõ và đồng tụng):

Tán Lư Hương

Lư hương xạ nhiệt,

Pháp giới mông huân,

Chư Phật hải hội tất diêu văn,

Tùy xứ kiết tường vân,

Thành ý phương ân,

Chư Phật hiện toàn thân.

Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-tát ma-ha-tát. (3 lần)

Xem thêm: Tại sao phải che gương khi nhà có người mất? Giải đáp chi tiết

Chú Đại Bi

Nam-mô Ðại-Bi Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. (3 lần)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni.

Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa. Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.

Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha.

Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)

Nam-mô Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. (3 lần)

Khai Kinh Kệ

Thạch thảo vô cùng, huyền bí đến kỳ diệu,

Đường đời vạn kiếp, khó khăn để hiểu thấu,

Bằng chứng tốt đẹp đồng hành với tri thức,

Nguyện giải thoát trong chân thật như Ðức Phật.

Kinh A Di Đà

NAM-MÔ LIÊN-TRÌ HẢI-HỘI PHẬT BỒ-TÁT. (3 lần)

PHẬT THUYẾT A-DI-ÐÀ KINH

Nghe như sau: Một lúc nọ, đức Phật ở vườn Kỳ Thọ, Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Có mười hai trăm năm vị đại tỳ kheo tập trung đầy đủ: Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu Hy La, Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lư Phả La Đọa, Ca Lưu Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, A Nậu Lâu Đà, và nhiều đại đệ tử khác.

Hàng Đại Bồ Tát như Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, A Dật Đa Bồ Tát, Càn Đà Ha Đề Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, cùng với các Đại Bồ Tát khác và vô lượng chư Thiên như ông Thích Đề Hoàn Nhân đã đến dự hội.

Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: “Từ đây về phương Tây, quãng mười muôn ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực Lạc. Trong thế giới đó, có đức Phật hiệu là A Di Đà, hiện nay đang nói pháp.

Xá Lợi Phất! Tại sao thế giới đó tên là Cực Lạc? Vì chúng sinh ở đó không gặp khổ nạn, chỉ hưởng lạc thú, nên nước đó được gọi là Cực Lạc.

Xá Lợi Phất! Trong Cực Lạc, có bảy tầng lớn, bảy mạng lưới, bảy dãy cây, đều được bao bọc bằng bốn chất báu, tạo thành vòng giáp. Do đó, nước đó được gọi là Cực Lạc.

Xá Lợi Phất! Trong Cực Lạc, có một ao, bảy chất báu làm đáy ao, nước có tám công đức. Đáy ao là cát vàng. Vàng bạc, lưu ly, pha lê tạo thành thềm, đường xung quanh ao. Trên thềm có lầu gác làm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe, mỗi loại hoa tạo ra ánh sáng tương ứng với màu sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng, nhiều màu thơm thoang.

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc đạt được công đức và trang nghiêm như vậy.

Xá Lợi Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, có nhạc trời vang vọng, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu lần rưới hoa trời mạn đà la. Chúng sinh trong cõi đó thường vào buổi sáng, cắm đày hoa tốt để cúng dường đức Phật ở phương khác. Sau đó, trở về quốc gia của mình, ăn cơm và thực hiện các công việc hằng ngày. Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc đạt được công đức và trang nghiêm như vậy.

Lại nữa, Xá Lợi Phất! Có những loài chim màu sắc tuyệt vời. Chim Bạch hạc, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cộng-mạng; Những loài chim này kêu tiếng hòa nhã sáu lần mỗi ngày. Tiếng kêu của chúng truyền đạt pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần, v.v. Chúng sinh trong cõi đó nghe tiếng chim và niệm Phật, Pháp, Tăng.

Xá Lợi Phất! Đừng nghĩ rằng những loài chim đó là do tội lỗi mà sinh ra. Vì sao? Vì cõi đó của đức Phật không có ba đường dữ.

Xá Lợi Phất! Cõi của đức Phật đó không có đường dữ, lại càng không có sự thật. Những loài chim đó là sự biến đổi của đức Phật A Di Đà, để truyền bá lời pháp và làm cho tiếng pháp lan tỏa.

Xá Lợi Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động cây và mạng lưới báu, tạo ra âm thanh diệu kỳ như hàng nghìn nhạc cùng hòa một lúc. Ai nghe tiếng đó đều niệm Phật, Pháp, Tăng.

Xá Lợi Phất! Cõi nước của đức Phật đó đạt được công đức và trang nghiêm như vậy.

Xá Lợi Phất! Nơi ý Xá Lợi Phất nghĩ thế nào? Tại sao đức Phật đó hiệu là A Di Đà?

Xá Lợi Phất! Đức Phật đó tỏa sáng vô biên, chiếu sáng khắp cõi nước trong mười phương mà không gặp chướng ngại, vì thế hiệu là A Di Đà.

Xá Lợi Phất! Đức Phật đó và nhân dân sống lâu vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà.

Xá Lợi Phất! Đức Phật A Di Đà đã trải qua mười kiếp.

Xá Lợi Phất! Trong đó có vô lượng đệ tử Thanh Văn đều là bậc A La Hán. Hàng Bồ Tát cũng đông như vậy.

Xá Lợi Phất! Cõi nước của đức Phật đó đạt được công đức và trang nghiêm như vậy.

Xá Lợi Phất! Lại trong Cực Lạc, chúng sinh vãng sinh vào đó đều là bậc vô thối chuyển. Nhiều bậc vô cùng, không thể đếm được. Chỉ có thể dùng số vô lượng a tăng kỳ để diễn đạt!

Xá Lợi Phất! Những người nghe những điều trên đây, phải phát nguyện cầu sinh về nước đó. Vì sao? Bởi vì có cơ hội gặp gỡ với các bậc Thượng thiện như thế.

Xá Lợi Phất! Không thể dùng ít chút thiện căn phước đức nhân duyên để sinh về cõi đó.

Xá Lợi Phất! Nếu có nam tử, nữ nhân nào nghe kinh A Di Đà. Rồi giữ danh hiệu của đức Phật đó, trong một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy ngày, tâm không tạp loạn. Khi lâm chung, đức Phật A Di Đà và hàng Thánh Chúng sẽ hiện thân ở trước người đó. Người đó khi chết, tâm không điên đảo, được vãng sinh về Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.

Xá Lợi Phất! Thấy được lợi ích đó, nên nói những lời như thế. Nếu có người nào nghe và cảm ơn, phải phát nguyện sinh về Cực Lạc.

Xá Lợi Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích không thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà. Ở phương Đông, có đức A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật, và nhiều đức Phật khác. Chúng đều ở trong nước mình, hiện tướng rộng lớn trùm khắp cõi Tam Thiên Đại Thiên, nói rằng: “Chúng sinh hãy tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá Lợi Phất! Ở phương Nam có đức Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật… Chúng cũng ở trong nước mình, hiện tướng rộng lớn trùm khắp cõi Tam Thiên Đại Thiên, nói rằng: “Chúng sinh hãy tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá Lợi Phất! Ở phương Tây có đức Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bửu Tướng Phật, Tịnh Quang Phật… Chúng cũng ở trong nước mình, hiện tướng rộng lớn trùm khắp cõi Tam Thiên Đại Thiên, nói rằng: “Chúng sinh hãy tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá Lợi Phất! Ở phương Bắc có đức Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhựt Sinh Phật, Võng Minh Phật… Chúng cũng ở trong nước mình, hiện tướng rộng lớn trùm khắp cõi Tam Thiên Đại Thiên, nói rằng: “Chúng sinh hãy tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này”.

Xá Lợi Phất! Vì vậy, những lời dạy của đức Phật là vô cùng quý báu và có sức mạnh lớn lao. Những ai lắng nghe kinh này và nuôi dưỡng lòng tin sẽ được đức Phật hộ niệm và bảo vệ khỏi những thăng trầm của cuộc sống. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thể hiện công đức phi thường, vượt qua những khó khăn và hiểm nguy hi hữu, để chứng minh cho chúng ta con đường đến Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.

Xá Lợi Phất! Hãy nhớ rằng cuộc sống trong đời ác ngũ trược là một hành trình khó khăn. Đức Phật đã trải qua những kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược, và mạng trược trung. Nhưng Ngài đã vượt qua tất cả những khó khăn đó để đạt được Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Điều này làm cho công đức của Ngài trở nên đặc biệt và không thể nghĩ bàn.

Xá Lợi Phất! Chúng ta, những thiện nam tử và thiện nữ nhân, hãy lắng nghe những lời dạy của đức Phật và nuôi dưỡng lòng tin. Hãy phát nguyện và mong ước sinh vào cõi nước của đức Phật A Di Đà. Những ai giữ vững lòng tin và phát nguyện sẽ không bị thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Đó là con đường đến bên kia, nơi chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc và an lạc vô lượng.

Xá Lợi Phất! Chúng ta hãy tôn kính và tin tưởng vào những nguyện thư của A Di Đà Phật, Tây-phương Giáo-Chủ Tịnh-độ năng Nhân. Nguyện rằng mọi chúng sinh đều được giải thoát và hướng về con đường Tịnh Độ, nơi mọi khổ đau và phiền não đều tan biến.

A Di Đà Phật tán!

Tây-phương Giáo-Chủ Tịnh-độ năng Nhân, Tứ thập bát nguyện độ chúng-sinh, Phát nguyện thệ hoằng thâm. Thượng-phẩm thượng-sinh, Ðồng phó Bửu-Liên thành.

Xem thêm: Sau 49 ngày người mất đi về đâu? Bí ẩn phía sau

Chí tâm đảnh lễ

(Cứ mỗi câu đều đọc)

1 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Hội tụ Cực-lạc giới, Đại Thế Chúng Sanh Hải-hội, Được bảo vệ bởi Ánh sáng Vô-Lượng Như-Lai.

2 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Hội tụ Cực-lạc giới, Đại Thế Chúng Sanh Hải-hội, Được bảo vệ bởi Ánh sáng Vô-Biên Như-Lai.

3 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Hội tụ Cực-lạc giới, Đại Thế Chúng Sanh Hải-hội, Được bảo vệ bởi Ánh sáng Vô-Ngại Như-Lai.

4 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Hội tụ Cực-lạc giới, Đại Thế Chúng Sanh Hải-hội, Được bảo vệ bởi Ánh sáng Vô-Đối Như-Lai.

5 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Hội tụ Cực-lạc giới, Đại Thế Chúng Sanh Hải-hội, Được bảo vệ bởi Ánh sáng Diệm-Vương Như-Lai.

6 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Hội tụ Cực-lạc giới, Đại Thế Chúng Sanh Hải-hội, Được bảo vệ bởi Ánh sáng Thanh-Tịnh Như-Lai.

7 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Hội tụ Cực-lạc giới, Đại Thế Chúng Sanh Hải-hội, Được bảo vệ bởi Ánh sáng Hoan-Hỉ Như-Lai.

8 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Hội tụ Cực-lạc giới, Đại Thế Chúng Sanh Hải-hội, Được bảo vệ bởi Ánh sáng Trí-Huệ Như-Lai.

9 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Hội tụ Cực-lạc giới, Đại Thế Chúng Sanh Hải-hội, Được bảo vệ bởi Ánh sáng Nan-Tư Như-Lai.

10 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Hội tụ Cực-lạc giới, Đại Thế Chúng Sanh Hải-hội, Được bảo vệ bởi Ánh sáng Bất-Đoạn Như-Lai.

11 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Hội tụ Cực-lạc giới, Đại Thế Chúng Sanh Hải-hội, Được bảo vệ bởi Ánh sáng Vô-Xưng Như-Lai.

12 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Hội tụ Cực-lạc giới, Đại Thế Chúng Sanh Hải-hội, Được bảo vệ bởi Ánh sáng Siêu-Nhật-Nguyệt Như-Lai.

Ma ha bát nhã ba la mật đa tâm kinh

Quán-tự-tại Bồ-tát, thực hành thâm Bát-nhã Ba-la mật-đa, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, đưa đến nhất thiết khổ ách.

Xá-Lợi-Tử! Sắc không dị, không không dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục đều như là không.

Xá-Lợi-Tử! Thấy rõ ràng rằng chư Pháp không có hình dạng, không sinh, không diệt, không tạo, không hủy, không tăng, không giảm. Thấy rõ ràng rằng cố không có không trung, không có màu sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm; không có màu sắc, âm thanh, mùi hương, vị giác, xúc cảm, các đặc điểm của vật chất; không có giới hạn của mắt, không có ý thức, không có vô ý-thức, không có vô ý-thức tận, không có sự già, không có sự trẻ, không có khổ đau, sự tập trung, sự diệt, sự theo đuổi đạo; không có vị trí và không có sự đắc được.

Vì không có nơi đắc được, Bồ-đề tát-đỏa và Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, tâm không có sự quấy rối; không có sự quấy rối, không có sự lo sợ, xa rời xa lạ, như trong một giấc mơ siêu hình, cứu cánh Niết-bàn. Tam-thế chư Phật, cùng với Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, đã đạt được A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.

Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thấy đại-thần chú, thấy đại-minh chú, thấy vô-thượng chú, thấy vô đẳng đẳng chú, để trừ đi nhất thiết khổ, chân thực không hư.

Cố thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa chú, tức là thuyết chú viết:

Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha. (3 lần)

Vãng sanh quyết định chơn ngôn

Nam-mô A Di Đà Bồ-đề, Quán-thế-âm đa đạt bà đạt, Quán-thế-đà đạt tha.

A Di Đà là nguyên nhân chính,

A Di Đà là đích đến cuối cùng,

A Di Đà là tất cả niềm vui,

A Di Đà là tất cả, niềm vui này.

Đã đến lúc, đã đến lúc, thời khắc nay,

Chỉ mong chúng sanh sẽ vãng sinh về cõi Bồ-đề.

Tán Phật

A-Di-Ðà Phật, hình thân quý bạch

Truyền bá ánh sáng vô song, không tận

Đẹp như thiên nga bay ngang ngựa cưỡi sóng

Đèn sáng soi bóng tối ở bốn biển.

Ánh sáng chói lọi biến hóa vô số dạng,

Biến hóa thành Bồ-tát vô cùng đa dạng

Bốn mươi tám nguyện định giúp chúng sanh,

Cửu phẩm hàm linh tỏa sáng trên bảy đại dương.

Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Đại-từ, Đại-bi A-Di-Ðà Phật.

Nam-mô A-Di-Ðà Phật. (Niệm nhiều hay ít đều được)

Nam-mô Ðại-bi Quán-thế-âm Bồ-tát. (3 lần)

Nam-mô Ðại-Thế-Chí Bồ-tát. (3 lần)

Nam-mô Ðại-Tạng Vương Bồ-tát. (3 lần)

Nam-mô Thanh-tịnh Ðại-Hải chúng Bồ-tát. (3 lần)

Sám thập phương

Thập phương Tam-thế Phật

A-Di-Ðà đứng ở vị trí hàng đầu,

Chín phẩm độ chúng sinh

Oai-đức vô cùng cực,

Ngã kim đại quy-y.

Sám-hối tam nghiệp tội,

Tích tụ phước thiện không biên,

Chí tâm hướng về hồi-hướng.

Nguyện cùng niệm Phật nhân,

Nhận biết theo thời gian,

Trải qua cảnh đẹp ở Tây-phương,

Hiểu rõ tại mục tiền,

Viết văn giải thích tinh tấn,

Sinh sống trong Cực-lạc quốc,

Nhìn thấy Phật giảng dạy về sinh-tử,

Như con đường đến Phật-độ là không thể thiếu,

Vô-biên phiền-não đều chấm dứt,

Vô-lượng pháp môn để tu tập;

Thệ nguyện giúp độ chúng sinh,

Tất cả giai đoạn đều trở thành con đường Phật đạo;

Vô tận trong hư-không, ngã nguyện vô-cùng,

Vô tận trong hư-không, ngã nguyện vô-cùng,

Tình dữ vô tình, đồng hành cùng chủng trí.

Mười đại nguyện

(Quỳ đọc)

Ðệ-tử chúng đẳng

Tu tập tùy thuận

Phổ-Hiền Bồ-tát

Thập chủng đại nguyện:

Lễ kính chư Phật,

Xưng tán Như-Lai,

Quảng tu cúng-dường,

Sám-hối nghiệp-chướng,

Tùy-hỷ công-đức,

Thỉnh chuyển pháp-luân,

Thỉnh Phật trụ thế,

Tùy Phật học,

Hằng thuận chúng-sinh,

Phổ giai hồi-hướng.

Hồi hướng

Phúng kinh công-đức, thù thắng hạnh,

Vô biên thắng phước giai hồi-hướng,

Phổ nguyện pháp-giới chư chúng-sinh,

Tốc vãng vô-lượng-quang Phật sát.

Nguyện tiêu tam-chướng, trừ phiền-não,

Nguyện đắc trí-huệ, chân minh liễu,

Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.

Thế thế thường hành Bồ-tát đạo.

Nguyện sinh Tây-phương Tịnh-độ trung,

Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ mẫu,

Hoa khai kiến Phật ngộ vô sinh,

Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ.

Nguyện với công-đức đó,

Phổ cập ư nhất thiết,

Ngã đẳng dữ chúng-sinh,

Giai cộng thành Phật-đạo.

Xem thêm: Cách tính 100 ngày người mất đúng chuẩn mới nhất

Thượng lai

(Vị chủ lễ xướng một mình như sau):

Ðệ-tử chúng đẳng, cùng tụng Phật tiền, phúng tụng Ðại-thừa kinh chú, cập niệm Phật công đức, chuyên vì kỳ siêu hương linh….. Pháp danh….. tốc xả mê-đồ, siêu sinh Tịnh-độ.

Phục nguyện

Nguyện thành đạt vô số lợi ích, vạn tội bị tiêu trừ, hương linh đắc độ cao-siêu, gia đình quyến thuộc đều được an lành hạnh phúc.

Phổ nguyện

Âm siêu dương thới, tất cả chúng-sinh trong pháp giới, tình dữ được hoá vô tình, hướng tới thành đạt Phật đạo.

Nam-mô A-Di-Ðà Phật.

(Ðồng niệm)

Tam quy y

Tự quy-y Phật, đồng nguyện cho chúng-sinh, để có thể giải đại-đạo, phát triển vô-thượng tâm. (1 lạy)

Tự quy-y Pháp, đồng nguyện cho chúng-sinh, thâm nhập kinh-tạng, trí huệ như biển lớn. (1 lạy)

Tự quy-y Tăng, đồng nguyện cho chúng-sinh, thống-lý đại-chúng, nhất thiết không gặp trở ngại. (1 lạy)

NAM MÔ HỘ PHÁP DI ĐÀ TÔN THIÊN BỒ TÁT!

Người mất trong 49 ngày rất trông mong người thân làm phước

Những lưu ý khi tụng kinh cho người mới mất

Khi thực hiện việc tụng kinh cho người mới mất, có một số điều quan trọng mà bạn nên lưu ý:

  • Tâm linh và tôn trọng: Trong lúc tụng kinh cho người mới mất, hãy giữ tâm linh trong sạch và tôn trọng. Hãy nhớ và cầu nguyện cho linh hồn đã qua đời với lòng thành kính và tình yêu thương.
  • Hiểu rõ nội dung kinh: Nếu bạn không quen thuộc với nội dung và ý nghĩa của bài kinh, hãy tìm hiểu kỹ trước khi bắt đầu tụng niệm. Điều này giúp bạn hiểu rõ hơn về tác dụng và ý nghĩa của từng câu chữ, và tụng kinh một cách chính xác.
  • Tôn trọng truyền thống tôn giáo: Tùy thuộc vào truyền thống tôn giáo của bạn, có thể có những quy định riêng về cách tụng kinh cho người mới mất. Hãy tìm hiểu và tuân theo các quy tắc và hướng dẫn của tông phái, ngôi chùa hoặc cộng đồng tôn giáo mà bạn thuộc về.
  • Tự quy và đảnh lễ: Trước khi bắt đầu tụng kinh, bạn có thể thực hiện tụng niệm tự quy và đảnh lễ để tạo sự tịnh tâm và sẵn sàng tâm linh. Tự quy là việc quy y và tôn kính Đức Phật và các vị Thánh Tăng, trong khi đảnh lễ là việc cúi lạy và tỏ lòng thành kính.
  • Tụng niệm và tập trung: Trong quá trình tụng kinh, hãy tập trung vào việc tụng niệm và tưởng tượng linh hồn của người đã mất. Tự tạo không gian tĩnh lặng và tâm hồn an lành để cầu nguyện và tương tác với linh hồn đó.
  • Cầu nguyện cho công đức và giải thoát: Trong khi tụng kinh, hãy cầu nguyện cho người đã qua đời tìm thấy bình an, được giải thoát khỏi luân hồi và tiếp tục hành trình trên con đường giải thoát.
  • Thực hiện công đức: Ngoài việc tụng kinh, bạn có thể thực hiện các hành động từ thiện như cúng dường, cúng hương, hay tặng quyền lợi cho người khác để thể hiện lòng thành kính và cầu nguyện cho người đã mất.

Xem thêm: Có nên thờ ảnh người mất trong nhà hay không? Điều kiêng kị

Lưu ý khi tụng kinh cho người mới mất
Lưu ý khi tụng kinh cho người mới mất

Tụng kinh cho người mới mất không chỉ là cách để gửi lời cầu nguyện và tình yêu thương đến linh hồn, mà còn là cách rèn luyện bản thân và tăng thêm nguồn năng lượng tích cực trong cuộc sống hàng ngày.

Xem thêmNhà quàn là gì? Danh sách nhà quàn tại TPHCM 2024